Con Người không có Nước-Như không thấy Mặt Trời


Thứ Hai, 29 tháng 7, 2013

VẬN ĐỘNG THẾ NÀO ĐỂ GIẢM MỠ TRONG MÁU



Thường thường người ta đều tưởng rằng vận động thể thao thể dục với cường độ mạnh như chạy marathon, tennis, vũ cầu kéo dài, bơi đua, tập tạ, đánh võ, chạy xe đạp nhanh.v.v..cho đến khi thở mệt hỗn hển, mồ hôi ra như tắm tức là có tác dụng giảm mỡ trong máu (cholesterol, triglycerid) . Rồi khi đi thử máu thấy mỡ vẫn còn cao như cũ hoặc siêu âm thấy gan vẫn còn bị nhiễm mỡ, không bớt gì hết. Tại sao ?
VẬN ĐỘNG THẾ NÀO ĐỂ GIẢM MỠ MÁU
Trong cuộc sống văn minh và đầy đủ dinh dưỡng như hiện nay, bệnh lý tim mạch và đột quị cũng như béo phì chiếm một tỷ lệ tử vong hoặc tàn phế rất cao không chỉ xảy đến cho người già mà còn cho người trẻ nữa nếu không biết cách hạn chế dinh dưỡng và tập luyện một cách hợp lý trong sự thu nhập đường và mỡ vào cơ thể chúng ta
Có rất nhiều người nghĩ rằng chơi thể dục thể thao với cường độ mạnh là hoặc thể dục qua loa sơ sơ là có thể làm tiêu mỡ, đường nhưng sự thật là không phải thế…Rốt cuộc theo với thời gian năm tháng bệnh tật kéo đến rất sớm như gan nhiễm mỡ, cao huyết áp, tiểu đường, xơ vữa động mạch, nhồi máu cơ tim và đột quị…..Do đó bài viết này nhằm giúp quí bạn hiểu rõ và nắm vững sự vận động hợp lý trong mục tiêu ngừa và trị liệu các rối loạn chuyễn hóa mỡ bằng phương thức vận động
TỪ MỘT LÁ THƯ THẮC MẮC…
Tôi năm nay 55 tuổi, thử máu thấy cholesterol cao, mỡ máu tăng (triglycerid) , gan nhiễm mỡ, vợ tôi 50 tuổi người gầy ốm cũng bị cao như tôi. Tôi đánh tennis, vợ tôi chơi vũ cầu liên tục 2 giờ mỗi ngày, Sáu tháng sau thử lại cả 2 người thì vẫn thấy mỡ và cholesterol cao không giảm cùng với sự tồn tại gan nhiễm mỡ. Tôi thắc mắc là tại sao có vận động cơ thể tối đa đều đặn như thế mà không giảm mỡ trong máu và vợ tôi gầy ốm mà tại sao vẫn bị mỡ cao ?
ĐỐI TƯỢNG BỊ MỠ CAO TRONG MÁU
-Thông thường là những người ăn uống nhiều chất mỡ, tinh bột, đường và lười vận động
- Không có nghĩa là mập mới bị mỡ cao trong máu, vì khi cơ thể đến lứa tuối trên 50, chuyển hóa đã bắt đầu kém không chuyển hóa hết mỡ hằng ngày do thức ăn đưa vào trong cơ thế, do đó dù ăn ít mỡ hoặc gầy ốm cũng có thể bị mỡ cao trong máu gọi là rối loạn chuyển hóa mỡ do tuổi già
VẬN ĐỘNG THẾ NÀO ?
Thường thường người ta đều tưởng rằng vận động thể thao thể dục với cường độ mạnh như chạy marathon, tennis, vũ cầu kéo dài, bơi đua, tập tạ, đánh võ, chạy xe đạp nhanh.v.v..cho đến khi thở mệt hỗn hển, mồ hôi ra như tắm tức là có tác dụng giảm mỡ trong máu (cholesterol, triglycerid) . Rồi khi đi thử máu thấy mỡ vẫn còn cao như cũ hoặc siêu âm thấy gan vẫn còn bị nhiễm mỡ, không bớt gì hết. Tại sao ? Ta hãy phân tích sự chuyển hóa của mỡ trong sự vận động sau đây :
Cường độ vận động gồm 2 loại, đó là vận động có oxy và vận động không có oxy
1-Vận động có oxy : là loại vận động có cường độ nhẹ và vừa như đi bộ, chạy chậm, nhảy dây, đi xe đạp chậm, tập dưỡng sinh…cơ thể có đủ oxy, cơ bắp chủ yếu xử dụng năng lượng thu được từ sự oxy hóa acid béo, mỡ được tiêu hao nhanh. Nếu vận động nhẹ mà thời gian dài thì sự giảm mỡ sẽ trên 80%, nếu vận động với cường độ vừa thì tỷ lệ tiêu hao mỡ và đường bằng nhau tức là 50/50%. Nếu vận động có cường độ lớn mạnh mẽ thì sự tiêu hao mỡ chỉ chiếm 15 – 20 % mà thôi
Chỉ sau 20 phút vận động, cơ thể mới bắt đầu dùng mỡ để tạo năng lượng, trong 20 phút này chỉ có đường glucose được tiêu thụ mà thôi do đó muốn tiêu hao mỡ thì phải vận động trên 30 phút khi đó mỡ và glycogen (là loại đường từ glucose được dự trữ ở gan và cơ) mới được chuyển hóa thành năng lượng. Cùng với sự kéo dài thời gian vận động thì sẽ tiêu hao được mỡ từ 70 – 90%. Do đó vận động dưới 30 phút là không có tác dụng giảm mỡ gì cả dù cường độ lớn hay nhỏ
Thời gian vận động phải liên tục không gián đoạn ví dụ đi bộ nên đi bộ nhanh hơn là đi bộ chậm trên 30 phút liên tục không nghỉ nửa chừng chứ không phải đi một đoạn rồi nghỉ rồi đi lại. Như vậy là không có tác dụng tiêu mỡ và nên nhớ lúc vận động phải có thở hít sâu, đều đặn bằng mũi hít vào và bằng miệng thở ra. Tóm lại vận động trung bình từ 45 – 60 phút là tốt nhất, nếu ít quá thì tác dụng chẳng là bao.
Trong sự vận động như đi bộ thì theo nghiên cứu nếu đi nhanh vào buổi sáng 1-2 giờ, lượng chất béo tiêu hao không đáng là bao như trái lại buổi tối dù chỉ đi bộ nửa giờ lượng chất béo tiêu hao lại tăng rõ rệt. Sở dĩ như thế là do đồng hồ sinh học của cơ thể quyết định. Thống kê cho thấy 2 giờ sau ăn tối đi bộ khoảng 40 – 60 phút thì lượng chất béo tiêu hao nhiều nhất, có thể làm giảm sự thèm ăn, rất có lợi cho sự giảm cholesterol và triglycerid máu
Khoảng cách đi bộ càng dài thì mỡ máu càng giảm
Tốc độ đi khoảng 10km/giờ tức là đi nhanh mới đạt mục tiêu giảm mỡ nhiều
2-Vận động không có oxy : là loại vận động có cường độ mạnh mẽ như chạy, đá bóng, bóng rỗ, nhảy cao, nhảy xa, bơi đua, tập tạ, tennis…Vận động này đòi hỏi oxy thật cao, trong lúc cơ thể không cung cấp đủ oxy , năng lượng có được là từ chuyển hóa đường glucose theo con đường vô khí (không có oxy), cuối cùng sẽ tạo acid lactic tăng cao sẽ ức chế sự phóng thích acid béo tự do, giảm sự chuyển hóa mỡ lipid. Do đó đối với cường độ vận động quá lớn sẽ không có tác dụng giảm mỡ trong cơ thể chỉ tiêu hao chất đường mà thôi
Hơn nữa, khi vận động mạnh mẽ, ta phải thở nhanh và gấp để bù oxygen thiếu hụt thì sẽ đưa đến sự gia tăng thông khí phổi tức là thở hỗn hển, thở cạn làm tăng sự thải COnhanh, cuối cùng nồng độ CO2giảm trong máu và sự bù đắp lượng oxy thu vào không cao. Kết quả là sẽ làm co thắt mạch máu não và cơ tim đồng thời ức chế sự di chuyển oxygen từ huyết sắc tố sang các tế bào. Mức độ C0quá thấp có thể đưa đến thiếu máu não và thiếu máu cơ tim cục bộ. Chính điều này gây ra những tai biến như đột quị, nhồi máu cơ tim, cao huyết áp nhất là ở lứa tuổi 50 trở lên khi vận động mạnh. Ngay cả tuổi trẻ cũng có thể bị nếu sự vận động mạnh mẽ này kéo dài như ở các cầu thủ bóng đá, tuy họ còn trẻ nhưng vẫn bị đột quị trong lúc đá bóng mà thỉnh thoảng chúng ta thường thấy
3-Làm thế nào biết được vận động có oxy hoặc không có oxy ?
Lượng tiêu hao oxy tỷ lệ thuận với nhịp tim nên chỉ cần đo mạch đập của mình trong lúc luyện tập là biết được sự vận động có thích hợp hay không.
Muốn cho mỡ được đốt cháy thì phải vận động nhẹ và vừa. Thời gian vận động càng dài, tốc độ càng chậm thì lượng mỡ tiêu hao càng nhiều. Ta có thể theo công thức sau đây để giảm mỡ một cách lý tưởng :
Nhịp tim : (220-số tuổi) x (60% hoặc70%)
Ví dụ : Người 50 tuổi thì phải có nhịp tim tối đa trong lúc vận động là :
220-50 x 70% = 119 lần/phút
Như thế ta phải kiểm tra nhịp tim bằng cách đo mạch đập ở cổ tay phải nhỏ hơn hoặc bằng 119 lần /phút thì mới có tác dụng giảm mỡ. Nếu trên số ấy thì là vận động mạnh chỉ có đường và protein tiêu hao mà thôi
Từ đó ta thấy những máy đi bộ ở nhà của các nước Tây phương luôn luôn có một cái hộp nhỏ gắn ở trên và trước mặt máy để đo nhịp tim của người tập rất tiện lợi cho ta điều chỉnh cường độ đi bộ của chính mình có oxy hay là không có oxy
VÀI ĐIỂM CẦN LƯU Ý
-Lẽ dĩ nhiên tập luyện vận động phải kèm theo chế độ dinh dưỡng hạn chế tinh bột, đường và mỡ
-Ăn vừa phải trái cây vì đường của trái cây là fructose, nếu dư thì sẽ biến thành mỡ trong cơ thể
-Nước ngọt bánh kẹo cũng phải hạn chế
-Nếu vận động mỗi ngày trên 30 phút thôi cho dù không thay đổi chế độ ăn uống cũng có thể làm thể trọng giảm dần trong nửa năm. Nhưng nếu tiết thực mà không vận động thì sẽ không giảm mỡ và không giảm thể trọng
-Nếu thời gian vận động trong 20 phút thì chỉ có thể khống chế tăng thể trọng mà không thể giảm thể trọng
-Phải vận động đều đặn, tối thiểu 3 lần/tuần, nếu hằng ngày thì càng tốt. Sau khi vận động thì hiệu ứng miễn dịch, giảm mỡ có lợi cho sức khỏe chỉ tồn tại 48 giờ mà thôi nếu không vận động trở lại thì hiệu ứng đó không còn nữa
-Sự vận động hợp lý như đi bộ nhanh 60 phút/ngày sẽ cho ta nhiều tác dụng ích lợi như : giảm cholesterol và triglycerid máu, HDL tỷ trọng cao (high density lipoprotein) có lợi gia tăng trong việc huy động mỡ từ ngoại biên như thành mạch máu trở về gan giúp cho mạch máu không bị xơ vữa tránh đột quị và nhồi máu cơ tim. Và LDL tỷ trọng thấp (low density lipoprotein) có hại giảm (LDL có nhiệm vụ chuyển mỡ ra ngọai biên ứ đọng ở thành mạch máu rất nguy hiểm)
-Vận động hợp lý cũng làm giảm huyết áp, ngừa bệnh tiểu đường type 2 và bệnh béo phì
-Dưỡng sinh khí công có tác dụng giảm mỡ không ? Chỉ có khí công động là có thể giảm mỡ được với điều kiện phải luyện tập liên tục trên 30 phút hằng ngày kèm theo chế đô ăn kiêng hợp lý
Tóm lại, muốn giảm mỡ hoặc chống béo phì thì nên vận động nhẹ vừa, kéo dài liên tục trên 30 phút, lý tưởng là 1 giờ kết hợp với tiết thực giảm mỡ, đường và đơn giản nhất là đi bộ nhanh mà ai ai cũng có thể thực hiện được


Thứ Tư, 24 tháng 7, 2013

30% BỆNH NHÂN UNG THƯ TỬ VONG DO... BỊ ĐÓI



Mới ăn vài miếng đã thấy no, gắp vài đũa đã thấy chán? Đây có lẽ là điều mong ước của một số người đang ao ước giảm cân, song lại là hiểm họa tiềm tàng của một căn bệnh vô cùng đáng sợ: ung thư 

Con đường suy mòn của ung thư


Hội chứng chán ăn-suy mòn từ lâu đã được nhận diện là một diễn tiến bất lợi trong xử trí căn bệnh ung thư, do nó làm giảm sự dung nạp của bệnh nhân với điều trị chống u, làm giảm thời gian sống còn của người bệnh. Tuy vậy, không ít bệnh nhân ung thư (BNUT) ở giai đoạn đầu không biết mình mang bệnh, khi mới có một ít dấu hiệu như chán ăn, sụt cân nhẹ thì cho là mệt mỏi bình thường. 

Con đường suy mòn đáng sợ của ung thư như sau: giai đoạn đầu, tiền suy mòn - BNUT chán ăn, sụt cân nhẹ; giai đoạn sau, suy mòn thực sự - người bệnh giảm ăn vào, sụt cân nhiều, rối loạn chuyển hóa toàn thân; giai đoạn cuối, suy mòn trơ -cơ thể suy kiệt, không đáp ứng với các điều trị, thường chỉ còn sống được dưới 3 tháng. 

Nguyên nhân dẫn đến chứng chán ăn là do trong quá trình tiến triển của khối u, chúng tiết ra các chất trung gian viêm (cytokines) gây mất đáp ứng của trung tâm thèm ăn tại não, tăng các tín hiệu chán ăn. Ngoài ra, do tác động choán chỗ của khối u khiến cơ thể bị các vấn đề về rối loạn hấp thu và tiêu hóa dưỡng chất, thể hiện rõ nét nhất ở những bệnh nhân ung thư tụy tạng và đường tiêu hóa.


Đối với BNUT, điều trị tốt chứng chán ăn góp phần ngăn chặn con đường dẫn đến suy mòn, giúp gia tăng hiệu quả điều trị chống u. Trong ảnh, Ths.BS Bùi Chí Viết đang thăm khám cho BNUT 


Ngoài ra còn có các nguyên nhân về tâm lý như lo âu, suy nhược tinh thần, do các tác dụng phụ của các liệu pháp xạ trị, hóa trị gây nôn ói, viêm loét đường tiêu hóa.. khiến nhiều bệnh nhân sợ ăn vào.


Hậu quả là phần lớn BNUT bị sụt cân, suy mòn. Khoảng hơn một nửa trong số họ bị giảm thể trọng ngay từ khi chẩn đoán. Trọng lượng mất có thể gây ra bởi người bệnh ăn ít, không cung cấp đủ năng lượng cho nhu cầu cơ thể, do cơ thể sử dụng năng lượng nhiều hơn, hoặc do cả hai. Bên cạnh đó, tình trạng dị hóa và tăng chuyển hóa do tác động của các liệu pháp điều trị ung thư làm bệnh nhân càng suy kiệt. Có đến 20%-30% bệnh nhân ung thư tử vong là do cơ thể suy kiệt, nói cách khác là “họ bị đói đến chết”.


Dỡ bỏ “con đường đáng sợ” có quá khó?


Ngăn chặn chứng chán ăn-suy mòn không phải dễ nhưng cũng không phải quá khó. Cách hiệu quả để ngăn chặn con đường đáng sợ này chính là can thiệp dinh dưỡng ngay từ khi được chẩn đoán ung thư. Các liệu pháp dinh dưỡng này phải luôn đồng hành cùng các điều trị chống u, từ giai đoạn điều trị, hồi phục, bình phục và trở lại với nhịp sinh hoạt bình thường của mọi bệnh nhân. 

BNUT cần đảm bảo chế độ ăn có đủ nhóm chất căn bản, trong đó tăng cường nhập năng lượng và chất đạm để bổ sung và tái tạo các mô bị ảnh hưởng bởi phẫu thuật, xạ trị, hoá trị. Cần đa dạng chế biến món ăn sao cho thật hợp khẩu vị người bệnh, giúp họ ăn được nhiều hơn. 

Với người bệnh bị thay đổi vị giác sau hóa trị, xạ trị bị khô tuyến nước bọt, hệ tiêu hóa hoạt động kém đi nên dùng thức ăn dạng băm nhỏ, nấu mềm, lỏng, xay nhuyễn như súp, cháo, sinh tố, sữa, nước ép trái cây, chia nhỏ bữa ăn cũng là cách giúp BNUT dễ hấp thu hơn. Người bệnh nên cố gắng ăn các món giàu chất xơ để hỗ trợ tiêu hóa. Ngoài ra, cần tránh những món ăn nhiều mỡ, nhiều gia vị, quá đắng, quá ngọt, quá nóng, quá lạnh.
Các yếu tố chịu trách nhiệm chính cho chứng chán ăn và hiện tượng suy mòn ở bệnh nhân ung thư là các cytokine làm xáo trộn chuyển hóa trong cơ thể người bệnh cũng như một số yếu tố đặc hiệu khác của khối u. Để chữa chán ăn từ gốc, các axít béo không bão hòa đa nối đôi như axít eicosapentaenoic (EPA) có vai trò quan trọng vì khả năng điều biến quá trình viêm-miễn dịch và đã được chứng minh giúp ức chế việc sản sinh các cytokine gây viêm, nhất là IL-1, và yếu tố hoại tử bướu (TNF- Tumor Necrosis Factors). Nhiều nghiên cứu lâm sàng trên bệnh nhân ung thư xác nhận rằng EPA, với liều dùng là 2g/ngày, giúp gia tăng cảm giác thèm ăn, ổn định trọng lượng và khối cơ thể nạc, gia tăng hiệu quả của các điều trị chống u.

Liệu pháp hỗ trợ dinh dưỡng giàu năng lượng, giàu protein, và nhất là kết hợp một hàm lượng EPA hiệu quả là một công thức vàng giúp điều trị hội chứng chán ăn-suy mòn và nhất là cải thiện chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân ung thu

Prosure (Abbott, Hoa Kỳ) là một trong những sản phẩm dinh dưỡng chuyên biệt cho người bệnh ung thư, được bổ sung hàm lượng EPA (Eicosapentaenoic acid) theo đúng khuyến cáo của Hội Dinh dưỡng Lâm sàng Hoa Kỳ (ASPEN), giàu protein, năng lượng cao, bổ sung chất xơ hòa tan FOS, đầy đủ các vitamin và khoáng chất. Sản phẩm này cũng đã được hơn 20 nghiên cứu y học trên thế giới chứng minh giúp bệnh nhân ung thư cải thiện sự ngon miệng, tăng thể trọng, tăng cường sức khỏe và hoạt động thể lực, nâng cao chất lượng cuộc sống

( SUU TAM )

Thứ Sáu, 19 tháng 7, 2013

Thầy Võ Hoàng Yên CHỮA CÂM ĐIẾC

ĐÊM TRĂNG !






Nguyệt Hạ Độc Chước
Hoa gian nhất hồ tửu
Độc chước vô tương thân
Cử bôi du minh nguyệt
Đối ảnh thành tam thân
Nguyệt tức bất giải ẩm
Ảnh tùng tùy ngã thân
Tạm bạn nguyệt tương ảnh
Hành lạc tu cập xuân
Ngã ca nguyệt bồi hồi
Ngã vũ ảnh linh loạn
Tỉnh thời đồng giao hoan
Túy hậu các phân tán
Vịnh kết vô tình du
Tương kỳ mạc vân hán
     Lý Bạch

Một Mình Uống Rượu Dưới Trăng

1-
Vườn hoa với bầu rượu
Không bạn, uống mình ta
Mời trăng cùng nâng chén
Với bóng nữa thành ba
Trăng nào đâu biết uống
Bóng theo ta mặn mà
Cùng trăng bên cạnh bóng
Vui xuân thật thiết tha
Trăng mơ nhìn ta hát
Ta múa, bóng nghiêng qua
Cùng vui khi tỉnh rượu
Hết say người chia xa
Kết thân tình thắm thiết
Hò hẹn bến Ngân qua
2-
Một bầu rượu giữa vườn hoa
Rượu đây không bạn cùng ta uống cùng
Nâng ly khẩn khoản mời trăng
Trăng, ta và bóng rõ ràng thành ba
Trăng không biết uống đâu mà
Còn đây chiếc bóng theo ta đêm dài
Cùng trăng với bóng miệt mài
Tuổi xuân mau hưởng thú vui trên đời
Ta ca trăng sáng tỏ ngời
Bóng theo ta múa chơi vơi nhịp nhàng
Hết say vui sướng rộn ràng
Tỉnh rồi mỗi kẻ một đàng chia xa
Tình cho nhau mãi thiết tha
Hẹn nhau gặp bến Ngân xa cuối trời

Hải Đà

      Lý Bạch rất yêu trăng, nhà thơ đã gửi gắm rất nhiều tâm tình vào vầng trăng, trăng tròn trịa như chiếc mâm, trăng sáng tinh như ngọc trắng, trăng yểu điệu như thục nữ ... Trăng trong thơ Lý Bạch rất xinh đẹp , trữ tình, thanh khiết và đáng yêu vô cùng. Theo Mao Thủy Thanh, "nhà thơ đã lấy "Bạch ngọc bàn" và "Dao đài kính" để mọi người trong liên tưởng cảm thực được cái đáng yêu của vâng trăng . Hình tượng trăng sáng và tâm tình của nhà thơ tùy theo mà cải biên. Trăng tròn thể hiện là sự đầy đặn của cuộc sống . Trong bài thơ "Cổ lăng nguyệt thành" nhà thơ ví vầng trăng như tấm gương trong soi sáng lòng người, đó chính là ánh sáng trác tuyệt của trí tuệ . Ở đây phải thấy Lý Bạch đưa giá trị vầng trăng đến đỉnh cao của sự trong sáng ".
    Có huyền thoại kể rằng Trăng là người tình chung thủy của Lý Bạch, để cuối cùng trong một đêm đi chơi trên sông Trường Giang bằng chiếc thuyền câu, trong lúc say khướt nhà thơ đã trầm mình xuống sông Trường Giang để được ôm vầng trăng trăng huyền ảo để cùng với trăng vĩnh viễn an giấc ngàn thu …. Có những hoạ sĩ Trung Quốc đã vẽ những bức tranh "Lý Bạch bắt trăng" , và Chu Tử Chi có câu thơ :
"Tróc đắc giang tâm ba để nguyệt
Khước qui thiên hạ ngọc kinh tiên"
(Bắt được mặt trăng giữa lòng sông dưới đáy
Đươc thiên hạ gọi tiên Ngọc kinh )
Kết luận : Bài thơ "Tĩnh Dạ Tứ" với một cấu trúc độc đáo, đã kết hợp được bốn điểm chính : Ý Tứ sâu đậm, Cảm Xúc tha thiết,  Hình Ảnh sinh động, Nhạc Điệu trữ tình. Ngôn từ cô đọng trong 20 chữ, không mòn sáo, dễ hiểu, giản dị, tự nhiên mà lại rất hàm súc sống động và nhiều hình tượng gợi cảm, đó là những rung động kỳ lạ, huyền ảo từ trái tim bộc trực của nhà thơ, đó là tiếng nói tri âm chí tình chân thực, là tâm hồn thanh khiết nhạy cảm tinh tế của người thơ.  Phải chăng đó là sự linh diệu thầm lặng của thơ, của ý tưởng ngẫu nhiên , nhưng lại có một hấp lực vô hình gây tác động mạnh mẽ, gợi lên những chuỗi liên tưởng phong phú  trong tâm hồn người đọc khôn nguôi ..."Ngẩng đầu trăng sáng trên cao,  Cúi đầu ngấn lệ nghẹn ngào cố hương". Nhịp thơ chấm phá đã hình tượng hóa được nỗi ưu tư sầu não tê tái một cách cụ thể, đó là cái quằn quại khổ đau mang số phận của một kiếp người lang thang, giữa đất trời trôi nổi, và những giọt lệ ly hương đã tuôn trào lai láng thành mạch sầu thiên cổ vô tận, biết dạt trôi về đâu ?
Hải Đà






Thơ Phóng Tác: Vương Ngọc Long
Phổ nhạc: Mai Đức Vinh
Cảm Xúc Đêm Trăng
(Ý thơ Tĩnh Dạ Tứ - Lý Bạch)
Đêm thu lặng lẽ gió phiêu phiêu
Réo rắt bên song tiếng sáo diều
Cố quận xa xăm sầu lữ thứ
Một mình quán vắng cảnh đìu hiu
Lá đổ mây giăng luống thẫn thờ
Rừng phong trở giấc động hồn thơ
Vi vu nhạc gió bên đồi vắng
Khắc khoải năm canh mắt lệ mờ
Ngổn ngang trăm mối vấn vương lòng
Ngàn dặm quê xa bóng chập chùng
Xào xạc thu vàng nghe tiếng vọng
Thềm trăng đầy ắp lá ngô đồng
Thổn thức hồn quyên mộng tỉnh say
Sông xưa bến cũ nhớ từng ngày
Phơ phơ tóc bạc đời sương điểm
Thở vắn đêm dài ngấn lệ cay
Đầu giường vằng vặc ánh trăng soi
Cứ ngỡ sương rơi đất trắng ngời
Trăng chiếu trời cao mê mẩn ngắm
Cúi đầu ... thương nhớ cố hương ơi !

    Vương Ngọc Long

Thứ Hai, 15 tháng 7, 2013

MẸ !

                                                                             
                                                                                     Dẫu thế nào mẹ sinh ta chỉ  một
Ở trên đời ta chỉ môt mẹ mà thôi !

MẸ

Con sẽ không đợi một ngày kia
khi mẹ mất đi mới giật mình khóc lóc
Những dòng sông trôi đi có trở lại bao giờ?
Con hốt hoảng trước thời gian khắc nghiệt
Chạy điên cuồng qua tuổi mẹ già nua
mỗi ngày qua con lại thấy bơ vơ
ai níu nổi thời gian?
ai níu nổi?
Con mỗi ngày một lớn lên
Mẹ mỗi ngày thêm già cỗi
Cuộc hành trình thầm lặng phía hoàng hôn.

Con sẽ không đợi một ngày kia
có người cài cho con lên áo một bông hồng
mới thảng thốt nhận ra mình mất mẹ
mỗi ngày đi qua đang cài cho con một bông hồng
hoa đẹp đấy - cớ sao lòng hoảng sợ?
Ta ra đi mười năm xa vòng tay của mẹ
Sống tự do như một cánh chim bằng
Ta làm thơ cho đời và biết bao người con gái
Có bao giờ thơ cho mẹ ta không?
Những bài thơ chất ngập tâm hồn
đau khổ - chia lìa - buồn vui - hạnh phúc
Có những bàn chân đã giẫm xuống trái tim ta độc ác
mà vẫn cứ đêm về thao thức làm thơ
ta quên mất thềm xưa dáng mẹ ngồi chờ
giọt nước mắt già nua không ứa nổi
ta mê mải trên bàn chân rong ruổi
mắt mẹ già thầm lặng dõi sau lưng
Khi gai đời đâm ứa máu bàn chân
mấy kẻ đi qua
mấy người dừng lại?
Sao mẹ già ở cách xa đến vậy
trái tim âu lo đã giục giã đi tìm
ta vẫn vô tình
ta vẫn thản nhiên?

Hôm nay...
anh đã bao lần dừng lại trên phố quen
ngã nón đứng chào xe tang qua phố
ai mất mẹ?
sao lòng anh hoảng sợ
tiếng khóc kia bao lâu nữa
của mình?
Bài thơ này xin thắp một bình minh
trên đời mẹ bao năm rồi tăm tối
bài thơ như một nụ hồng
Con cài sẵn cho tháng ngày
sẽ tới! 


(Xin tặng cho những ai được diễm phúc còn có Mẹ
Đỗ Trung Quân - 1986)





LÒNG MẸ



Gái lớn ai không phải lấy chồng
Can gì mà khóc, nín đi không !
Nín đi ! mặc áo ra chào họ
Rõ quí con tôi ! Các chị trông !

Ương ương dở dở quá đi thôi !
Cô có còn thương đến chúng tôi
Thì đứng lên nào ! lau nước mắt
Mình cô làm bận mấy mươi người.

Này áo đồng lầm, quần lĩnh tía
Này gương này lược này hoa tai
Muốn gì tôi sắm cho cô đủ
Nào đã thua ai đã kém ai ?

Ruộng tôi cày cấy, dâu tôi hái
Nuôi dạy em cô tôi đảm đương
Nhà cửa tôi coi, nợ tôi giả
Tôi còn mạnh chán, khiến cô thương !

Đưa con ra đến cửa buồng thôi
Mẹ phải xa con, khổ mấy mươi !
Con ạ ! đêm nay mình mẹ khóc
Đêm đêm mình mẹ lại đưa thoi.


- Nguyễn Bính -


ÐỔI CẢ THIÊN THU TIẾNG MẸ CƯỜI

Nhấc chiếc phone lên bỗng lặng người
Tiếng ai như tiếng lá thu rơi
Mười năm mẹ nhỉ mười năm lẻ
Chỉ biết âm thầm thương nhớ thôi

Hôm ấy con đi chẳng hẹn thề
Ngựa rừng xưa lạc dấu sơn khê
Mười năm tóc mẹ màu tang trắng
Trắng cả lòng con lúc nghĩ về

Con đi góp lá ngàn phương
Đốt lên cho đời tan khói sương
Con đi xin mẹ hãy chờ
Ngậm ngùi con dấu trong thơ

Đau thương con viết vào trong lá
Hơi ấm con tìm trong giấc mơ
Con đi xin mẹ hãy chờ
Ngậm ngùi con dấu trong thơ

Nghe tiếng me như tiếng nghẹn ngào
Tiếng người hay chỉ tiếng chiêm bao
Mẹ xa xôi quá làm sao với
Biết đến bao giờ trông thấy nhau

Nghe tiếng me ơi bỗng lặng người
Giọng buồn hơn cả tiếng mưa rơi
Ví mà con đổi thời gian được
Đổi cả thiên thu tiếng mẹ cười 


Trần Trung Ðạt

Thứ Tư, 10 tháng 7, 2013

CCĐY 1 - HỆ THỐNG CẤU TẠO THẦN TRONG ĐÔNG Y



Thần là một trong ba yếu tố tinh-khí-thần dùng để lý luận trong việc khám và chữa bệnh theo phương pháp cổ truyền của đông y.
Đối với đông y, thần đóng vai trò quan trọng nhất trong việc chữa bệnh. Việc nghiên cứu thần được lập thành hệ thống, và đã ứng dụng, tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong việc chữa trị cả hàng ngàn năm, xây dựng được một hệ thống kinh mạch huyệt đạo căn bản gồm 365 huyệt, mỗi huyệt tạo ra một phản ứng chức năng thần kinh, nhưng khi phối hợp huyệt thì lại còn phong phú đa dạng hơn giống như cách phối hợp các thành phần hóa chất để tạo ra một phản ứng hóa học nhất định nào đó. Cho nên các huyệt này vừa để khám bệnh, vừa để chữa bệnh mà không cần phải xét nghiệm nữa, vì khi xét nghiệm hoặc chữa bệnh kết qủa đều giống nhau đối với một huyệt, đông y gọi là hiệu năng chữa trị của huyệt đã được đúc kết kinh nghiệm rất phong phú, vì vậy người xưa nói rằng ‘cái gì chưa biết mới cần phải thử ,cái gì đã biết rồi khỏi cần phải thử nữa’..

Hệ thống cấu tạo thần trong đông y :
Về cơ sở vật chất :
Về chức năng :
Ảnh hưởng do Tinh (tinh chất của thức ăn) :
Xét về mùi :
Ảnh hưởng do khí :
Ảnh hưởng do thần :
Là bộ óc, tế bào não, trung khu thần kinh, dây thần kinh thông qua cột sống liên lạc với tạng phủ, da, thịt, xương, gân...đến tất cả mọi chỗ của cơ thể.
Ngoài chức năng của ngũ quan, của trung khu thần kinh, của lục phủ ngũ tạng, của hệ nội tiết, hệ miễn nhiễm, hệ hô hấp, dinh dưỡng, tuần hoàn, tiêu hóa, bài tiết, sinh dục, hệ giao cảm, vận động, phản xạ, hưng phấn, ức chế.. mà khoa học đã biết, còn có những chức năng khác, thường được dùng trong phép chữa bệnh bằng huyệt gọi là hệ nội dược .
Con người, trong cơ thể có chứa sẵn các hóa chất mà từng giây từng phút vẫn trao đổi phản ứng hóa học gọi là phản ứng sinh học tự động để điều khiển mọi chức năng cần thiết cho sự sống, ta tạm gọi là Hệ điều hành và kiểm soát chức năng sinh học tự động. Thí dụ trong trường hợp bệnh tiểu đường hay bệnh còi xương chẳng hạn, khi phân chất thành phần dinh dưỡng trong thực phẩm ăn uống hàng ngày đều có đủ, nhưng chức năng yếu, không hấp thụ được 100% mà chỉ được 20-30% chất phosphate, calcium trong bệnh còi xương, và hoàn toàn không hấp thụ chất đường, cho nên dư thừa chất vôi, chất đường trong nước tiểu, trong máu. Như vậy ta phải hiểu chương trình điều hành chất vôi và chất đường của THẦN đã yếu hay hỏng cho nên không thu nạp và chuyển hóa thành chất bổ nuôi cơ thể. Tuy nhiên, nếu ta không ăn chất ngọt thì cơ thể thiếu đường để nuôi bắp thịt và cơ tim sau sẽ bị suy tim làm mệt, ngược lại, nếu ăn nhiều chất vôi chữa bệnh còi xương mà khả năng hấp thụ ít không qúa 30% ,phần còn lại sẽ làm mệt thêm chức năng thải lọc của thận, sau sẽ làm cho thận yếu dẫn đến bệnh sạn thận.
Người chữa bệnh bằng huyệt nội dược, giống như dược sĩ bào chế thuốc ngoại dược, biết cách sử dụng máy vi tính của bộ não, lập ra một quy trình điều hành nội dược mà cơ thể có sẵn thông qua cách chọn huyệt, làm tăng hệ thống hấp thụ và chuyển hóa, lúc đó cơ thể sẽ hấp thụ và chuyển hóa được chất đường và chất vôi..Hệ thống sử dụng huyệt để chữa bệnh gọi là hệ thống nội dược bán tự động ( système endocrine ) vì phải nhờ đến thầy thuốc kích thích huyệt. Nếu thầy thuốc sử dụng huyệt sai, giống như thảo chương cho máy điện toán sai máy không điều hành được. Muốn điều chỉnh được sự khí hóa đúng làm cho cơ thể khỏe mạnh, thầy thuốc phải hiểu rõ các chức năng của thần trong việc khí hóa của Tinh-Khí-Thần., của âm dương ngũ hành của tạng phủ mới có thể chữa được gốc bệnh.
TINH : Là thức ăn có âm, có dương, có ngũ hành, có hàn nhiệt, hợp với tạng phủ nào, không hợp với tạng phủ nào. Thức ăn âm làm cho cơ thể mát sinh huyết, thức ăn dương làm cho cơ thể ấm,nóng sinh khí. Nếu ta bị bón là đã ăn nhiều chất dương, nếu ta bị bệnh tiêu chảy là đã ăn nhiều chất âm. Đông y phân loại thức ăn có chất ngọt vào tỳ, chất cay vào phế, chất mặn vào thận, chất chua vào gan, chất đắng vào tim. Thức ăn lúc nào cũng phải đủ tính, khí và vị, không dư không thiếu gọi là quân bình sự khí hóa ngũ hành.
KHÍ : Ngoài sự hít thở và vận động để tạo khí kích thích sự tuần hoàn của khí và huyết, còn có khí âm dương ngũ hành của mỗi tạng phủ có chức năng riêng ,đông y gọi Phế khí là táo khí, Thận khí gọi là thủy khí ,Can khí là phong khí, Tâm khí là hỏa khí, Tỳ khí là thấp khí. Khí của tâm, can, tỳ, phế, thận ,gọi chung là âm khí. Khí của Tiểu trường là hỏa khí ,Đởm khí là phong khí, Vị khí là thấp khí, Đại trường khí là táo khí, Bàng quang khí là thủy khí, gọi chung là dương khí. Thầnđiều hòa được đúng các khí, đúng các bộ vị của tạng phủ hoạt động tốt, đó là chức năng tự động của thần. Mỗi một chức năng của tạng phủ bao gồm chức năng nuôi dưỡng, phát triển, bảo vệ cơ sở bên trong và bên ngoài tạng phủ. Thí dụ như bao tử bị loét, là cơ sở vật chất bị tổn thương thực thể, nó phải báo cho thần lập kế hoạch và thực hiện sửa chữa, khi thực thể bị co thắt hoặc thòng, nó cũng phải báo cho thần điều chỉnh ,khi ăn ít bao tử nhỏ lại, khi ăn nhiều bao tử cần phải lớn mạnh hơn thần cũng phải dự trù kế hoạch phát triển và điều tiết những dịch chất của gan, mật, tỳ, vị ở giữa hai lớp thành bao tử cho phù hợp với những thay đổi của cơ thể.
Chức năng ngoài của tạng phủ, Tây y không thể thấy được nhưng rất quan trọng. Chẳng hạn như Đông y nói bao tử nhiệt ,khi Tây y xét nghiệm không thấy tổn thương thực thể nên không cần phải chữa bao tử, nhưng đối với đông y, bao tử nhiệt làm chân răng lỏng, trồi lên, đau răng, viêm chân răng sẽ phải nhổ ,nếu bao tử bị nhiệt một thời gian lâu sẽ bị bệnh loét bao tử.., còn đông y chữa cho bao tử hết nhiệt lúc đó các triệu chứng bệnh trên sẽ hết, hoặc khi bao tử bị đầy hơi đưa lên họng thành ợ hơi, hôi miệng, cơ thể có huyệt tạo ra chức năng hạ hơi, giáng khí. Như vậy mỗi huyệt có nhiều chức năng để trị bệnh, gọi là đặc tính của nộidược., có tính, khí và vị riêng . Khi tác động vào huyệt là tác động trực tiếp vào hệ thần kinh để tạo ra một vị thuốc thiên nhiên có sẵn trong cơ thể nhờ vào sự điều chỉnh hormone như ý muốn của huyệt để điều chỉnh khí phong, hàn, thử , thấp, táo, nhiệt, điều chỉnh về khí, về huyết, điều chỉnh khai thông, họặc đóng giữ lại ,điều chỉnh sự vận động cơ bắp, kinh mạch, chữa thần kinh, giảm đau, tăng sức đề kháng, điều chỉnh hô hấp, tuần hoàn, tiêu hóa, bài tiết, sinh dục, tăng cường miễn nhiễm ,điều chỉnh nội tiết, tăng giảm hồng cầu, bạch cầu, gỉải độc, chữa và điều chỉnh chức năng bên trong và bên ngoài tạng phủ, phát triển và bảo vệ da, thịt ,gân, xương..điều chỉnh thần kinh vận động, cảm giác của tứ chi, của đầu, mặt, mắt, tai, mũi lưỡi, răng họng..Tất cả các huyệt giống như một hóa chất, một nguyên tố hóa học ,người dược sư có thể phát minh ra đủ các loại thuốc ,nhưng khác nhau ở chỗ thuốc ngoại dược đi vào cơ thể để chữa bệnh, nếu cơ thể không chấp nhận hoàn toàn như ý muốn của người bào chế sẽ tạo ra phản ứng phụ, cơ thể sẽ phải mất đi một số năng lượng để loại bỏ những chất không cần đôi khi còn làm hại cơ thể gọi là độc tố, ngược lại tác động lên huyệt để cơ thể tự động sản xuất ra thuốc gọi là nội dược tùy vào cách phối hợp huyệt của thầy thuốc. Cơ thể mạnh hay yếu đều nhờ vào sự biến đổi của khí gọi là sự khí hoá ,sự khí hóa là vô hình nhưng kết qủa là hữu hình ,vì khí biến đổi từ dinh dưỡng thuộc tinh, từ hơi thở ,sự vận động ,và từ không khí ,thời tiết thuộc khí ,và khí cũng biến đổi theo tâm lý tình cảm thuộc thần. Khi tinh-khí-thần hòa hợp cơ thể được khỏe mạnh thì ai cũng có thể nhìn thấy .
THẦN :Nói đến thần là phải liên quan đến ý, đông y thường nói ‘ Ý ở đâu, khí ở đó ,khí ở đâu huyết cũng ở đó .’ Cho nên định bệnh để chọn huyệt chữa rất quan trọng, và phương pháp chữa cho có hiệu qủa cũng quan trọng không kém. Thí dụ bệnh mất ngủ kinh niên, theo đông y có hàng chục nguyên nhân khác nhau, sẽ có hàng chục cách chữa khác nhau. Ở đây chúng ta xét về khí huyết ở bộ não ,nếu bộ não thiếu khí huyết để nuôi não, người sẽ bần thần mệt mỏi nên khó ngủ, huyệt kích thích phải ở trên đầu để cho ý phải tập trung trên đầu, theo nguyên tắc ý ở đâu thì khí huyết ở đó, cho nên khí huyết đã lên đầu để nuôi não. Ngược lại, khi bị bệnh cao áp huyết, sung huyết não, bộ não tích tụ nhiều huyết nhiệt làm đầu nóng, rối loạn thần kinh gây mất ngủ, đông y sẽ chọn huyệt ở dưới chân để kích thích đem khí huyết xuống chân ,giải tỏa sự sung huyết trên đầu..Do đó, tùy theo nguyên nhân mất ngủ để chọn huyệt nội dược thích hợp, nếu mất ngủ do ăn no trước khi đi ngủ theo thói quen thì nguyên nhân do chức năng bao tử, nếu uống thuốc trị bệnh mất ngủ mà vẫn không ngủ được là do uống nước nhiều trước khi đi ngủ khiến cho đêm phải thức giấc để đi tiểu thì nguyên nhân do chức năng thận, mất ngủ ở phụ nữ trong thời kỳ tiền mãn kinh là do xáo trộn hormone, có loại mất ngủ do đau nhức, do tâm lý vui qúa, buồn qúa, lo qúa ,sợ qúa, giận qúa..
Kết qủa chữa bệnh lâu hay mau đều lệ thuộc vào thần ,mọi chức năng hoạt động trong cơ thể đều do thần điều khiển. Thần chia làm ba loại :
Loại bẩm sinh :
Là bộ thần kinh hoàn hảo hay thiếu sót gồm cả bộ lưu trữ và bộ nhớ, cho nên có người thông minh, có người khờ dại ,có người có sức đề kháng mạnh, có người yếu hay bị bệnh lâu khỏi..
Loại do thói quen :
Ảnh hưởng bởi phong tục tập quán sinh hoạt trong gia đình, xã hội, môi trường, hoàn cảnh địa dư, văn hóa, chính trị, tôn giáo, nên tâm lý tình cảm, quan điểm, có phản ứng nhanh chậm khác nhau.
Loại tri thức :
Do học hỏi huân tập thông qua giác quan mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý mới sinh ra phân biệt, thành kiến, cho nên có người thích đông y, có người tin và thích tây y.
Dù sao, qua kinh nghiệm của đông y, mọi sự thay đổi của tinh-khí-thần đều làm thay đổi hệ giao cảm và hệ vận động của thần kinh ,sẽ làm thay đổi tỷ lệ hormone, như vậy là làm thay đổi luôn sự hoạt động của tế bào trong cơ thể. Những tế bào thần kinh của lục phủ ngũ tạng làm việc liên kết với nhau từng giây từng phút để bảo đảm bộ ba tinh-khí-thần giữ đúng tiêu chuẩn hòa hợp sự khí hóa của cơ thể được tốt. Nếu có bất cứ một sự xáo trộn nào của tinh, khí , thần, đều có ảnh hưởng đến tạng phủ :


Xét về vị :
TÂM ưa đắng, nhưng đắng qúa hại tim, cho nên tâm hư cần uống thuốc có chất đắng, tâm thực là dư chất đắng phải bớt đi bằng cách không nên ăn những chất có vị đắng hoặc tả tâm thực phải dùng chất mặn, hoặc bổ thận thủy để khắc chế tâm hỏa theo luật sinh khắc ngũ hành.
GAN ưa chua, nhưng chua qúa hại gan, chất chua đối với tây y là vitamine C, nhưng đông y lúc nào cũng phải xét đến tính chất âm dương của một chất về khí, tính và vị, cho nên tục ngữ đã có câu nói về tính : cam hàn, quít nhiệt, bưởi thanh. Nếu một bệnh nhân thân nhiệt cảm thấy lạnh mà cần phải dùng đến vitamine C để tăng cường sức đề kháng phải dùng quít không được dùng cam người sẽ lạnh thêm làm trở ngại sự tiêu hóa, các dưỡng trấp không đủ nhiệt lượng để hóa huyết sẽ biến thành đờm. Nếu bệnh nhân cảm thấy nóng bức, cổ họng khô khát, ho khan, cần phải dùng Vitamine C ở cam làm giảm nhiệt. Nếu cơ thể cần bớt chất béo loại trừ cholestérol mà không sợ phạm hàn, phạm nhiệt nên dùng Vitamine C ở bưởi.
TỲ ưa ngọt,nhưng ngọt qúa lại hại tỳ. Khi Tỳ hư cần phải bổ tỳ bằng chất ngọt để nuôi tim và cơ bắp, tỳ thực là dư chất ngọt phải cữ ăn ngọt ,nếu không chất ngọt dư thừa sẽ làm tăng men tiêu hóa ,tăng nhiệt ở bao tử và lá mía sẽ sinh bệnh tiểu đường, loét bao tử ,lở da, thấp chẩn ,eczéma ,sưng đau đầu gối, thấp khớp, mục xương.
PHẾ ưa cay ,chất cay giúp phế mở lỗ chân lông bài tiết mồ hôi, cho nên khi ăn cay chúng ta cảm thấy nóng da đỏ mặt và xuất mồ hôi, nhưng cay qúa sẽ hại phế mất khả năng điều tiết lỗ chân lông làm tiêu chảy, mất nước, chảy nước mắt, làm hại gan, áp huyết tăng..
THẬN ưa mặn, vì thận cần nước, chất mặn giữ nước để làm quân bình tỷ lệđường-muối-nước cho cơ thể, nhờ nước ở thận gọi là thủy khí dùng để điều hòahỏa khí, thấp khí, phong khí, hàn khí, táo khí, nhờ nước thận mới lọc máu ,giải độc, giải nhiệt có hiệu qủa, nhưng nếu dư nước cơ thể sẽ phù thủng, tiêu chảy, bụng báng, xệ ruột (hernie ), khúc ruột nơi bẹn bên trái phình to chặn vào động mạch đùi háng làm chân trái yếu, tê, phù, sưng đầu gối, nơi khúc ruột ấy mất sự co bóp để tống phân ra ngoài bệnh nhân tưởng lầm là bị bệnh táo bón ,phân lưu trữ lâu ngày làm thối khúc ruột sẽ thành ung thư ruột.

Mùi khê, khét vào tâm, trên quan điểm bổ-tả , thức ăn có mùi khê khét vừa ,còn tồn tính thì còn bổ, khê khét qúa mất hết chất bổ mà cố ăn vào sẽ hại cho tim mạch.( ăn thịt nướng cháy già lửa quá sẽ hai tim ).
Mùi hôi thối, úa của thực phẩm hay của môi trường làm hại gan.
Mùi thơm của thức ăn kích thích tỳ ăn ngon, nhưng càng cao lương mỹ vị qúa lại hại tỳ sinh chán ăn, ăn không tiêu.
Mùi tanh vào phế, khi phổi yếu không đủ oxygène để chuyển hóa dưỡng trấp thành huyết ,cần phải bổ bằng chất tanh ,như ăn cá, ăn uống có thêm chất kim loại như chất sắt trong thực phẩm hoặc thuốc uống để phục hồi sự khí hóa của phổi.
Mùi khai thuộc thận, nước tiểu trong, không có mùi khai là chức năng của thận yếu không lọc rút được cặn bã và độc tố trong cơ thể ,cần phải ăn loại thực phẩm có nhiều chất vôi, phosphore, đồ biển thích hợp, nhưng qúa bổ thành dư thừa làm thận bị đóng sạn.

TÂM ưa hỏa khí để tim đủ sức nóng tạo nhiệt cho cơ thể, nhưng ăn những chất kích thích nhiều hỏa qúa, hoặc do môi trường làm việc, khí hậu, thời tiết nóng nực qúa làm mệt tim ,khó thở, tăng áp huyết.
CAN ưa phong khí, vì can tàng huyết,cần phải lay động nhẹ như thở để trao đổi oxy cho máu được tốt, nhưng ăn nhiều chất chua, các loại mắm lên men, hút thuốc lá, uống rượu, hoặc các loại thức ăn có nhiều độc tố làm gan phải co bóp thải độc mạnh, đông y gọi là can phong nội động, chẳng may lại gặp trùng hợp ngoại phong xâm nhập cơ thể, tạo áp lực huyết trong gan sung lên não làm đứt mạch máu não sẽ thành tê liệt, bán thân bất toại.
TỲ ưa thấp khí là khí vừa nóng vừa ẩm để tạo ra men tiêu hóa làm tiêu hóa thức ăn,nhưng thấp khí nhiều qúa làm lở da, hại thịt, cơ bắp, nếu gặp môi trường ẩm thấp bên ngoài ,hoặc khí hậu ẩm thấp là điều kiện dễ phát sinh vi trùng, vi khuẩn, thức ăn dễ lên men ,hư thối ,hoặc cơ thể dư chất đường dễ lên men sinh ra nhiều thấp khí khiến cơ thể mệt mỏi nặng nề. Chức năng của tỳ là dẫn các dịch chất lưu thông khắp cơ thể, nếu tỳ có qúa nhiều thấp khí sẽ làm lưu thông bị đình trệ, tắc nghẽn, sinh đau nhức cơ bắp, nhức mỏi, phong thấp, nếu tỳ không dẫn huyết để nuôi xương cốt sẽ sinh bệnh thấp khớp, khô xương, chân tay nặng nề, phù thủng
PHẾ ưa táo khí, là khí khô ráo, không nóng qúa làm teo phổi gây khó thở, không lạnh qúa làm phổi có nhiều hơi nước gây thở khò khè.Táo khí của mùa thu làm cây cỏ thu mình lại nó có tính chất co rút ,nên phổi có tính chất co rút tự động ,khi hít vào phổi nở ra,khi không hít vào thì phổi tự động co rút lại để đẩy khí ra ngoài gọi là thở ra. Đại trường liên quan đến phế cũng thuộc táo khí có tính chất co rút cặn bã của thức ăn, nước thấm qua thành ruột vào bàng quang thành nước tiểu, còn lại cặn bã trong ruột thành phân. Nhưng nếu táo khí qúa nhiều trong phổi sẽ thành bệnh teo phổi ( phế nuy),còn táo khí nhiều trong ruột già làm phân khô cứng sẽ bị táo bón.
THN ưa hàn khí, là thích khí mát, thận cần nước để điều hòa lượng đường, muối, vôi, mỡ có trong cơ thể để giữ thân nhiệt bình thường, để lọc và giải độc, nếu thận nóng sẽ đi tiểu dắt và đỏ ,nếu thận hàn sẽ đi tiểu nhiều, nếu thận lọc tốt nước tiểu mầu hơi vàng, nếu thận hư yếu không lọc, nước tiểu có mầu trắng, thận còn có chức năng điều hòa tam tiêu để chuyển vinh khí, vệ khí đi khắp cơ thể qua đường cột sống gọi là thận dương.

Lục căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý ) nhiễm lục trần ( sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) đều có thể làm thay đổi thần ,nhưng về bệnh tật, đông y chú trọng đến ba yếu tố chính là tâm lý, mầu sắc và âm thanh.
TÂM ưa mầu đỏ, sinh vui, hay cười .Tục ngữ có câu ‘ cườI như điên’, vì tâm tàng thần, khi vui qúa mất kiềm chế cử chỉ và hành động nên gọi là điên.
CAN ưa mầu xanh, ưa giận, giận qúa trớn hay la hét.Tục ngữ có câu ‘giận căm gan ,hoặc giận bầm gan tím ruột’, gan chủ gân, nên mỗi khi giận làm run gân chân tay. Gan tàng hồn, khi bị bệnh gan nặng, bệnh nhân như người mất hồn.
Tỳ ưa mầu vàng, Tỳ tàng ý nên ưa suy tính, lo nghĩ, nếu được thỏa mãn thường hay hát, nếu lo tính chưa xong thì lo ăn mất ngon, ngủ mất yên.
PHẾ ưa mầu trắng, dễ mẫn cảm với buồn, buồn hay thở dài ,buồn qúa hóa khóc, nếu chỉ thở ra nhiều hơn hít vào làm teo phổi, giảm oxy trong máu làm suy thần kinh, hại tế bào, thiếu oxy trong não sinh ra trăm bệnh, đông y có câu ‘phế tàng phách, nếu phách lạc thì hình suy ‘,phụ nữ có bệnh buồn chán hay thở dài trong nhiều năm làm oxy và máu bị tắc tuần hoàn ở vú sẽ thành bệnh ung thư vú.
THẦN ưa mầu đen, dễ mẫn cảm với sợ hãi thành hay rên, đông y có câu ‘ sợ phát run, hoặc sợ vãi đái ‘,như vậy sợ làm ảnh hưởng đến thận.Thận tàng tinh,người bị bệnh sợ ám ảnh làm mất chức năng khí hóa của thận là sinh tinh hoá tủy để nuôi tế bào não, nuôi cột sống ,xương cốt,, khi nguyên khí mất ,da mặt đổi mầu xạm đen hoặc mốc, khi sợ hãi qúa sẽ tổn thương đến thận. Người bị bệnh thận đêm ngủ thường hay rên. Bệnh mãn tính làm cơ thể suy nhược mất thần, nhút nhát, nói yếu hơi ,để lâu không chữa làm hại gan da mặt đổi sang mầu hơi xanh lẫn đen tái.
Như vậy THẦN bao gồm tất cả mọi sự điều hành của cơ thể để nuôi dưỡng, phát triển, và bảo vệ cơ thể thông qua hệ thần kinh dẫn truyền và phản xạ để điều tiết hệ nội tiết (système endocrine) giữ cho bộ ba tinh-khí-thần về cơ sở và chức năng lúc nào cũng được quân bình hòa hợp, nếu con người không hiểu cấu trúc của nó, ăn uống thuốc men sai lầm, hít thở yếu kém,và tâm lý thần kinh bất bình thường, đã vô tình phá vỡ trật tự khiến bộ ba tinh-khí- thần mất ổn định sẽ làm cho cơ thể bị bệnh.
(  Thay : doducngoc )